Cạnh tranh địa kỹ thuật số nhìn từ chiến lược con đường tơ lụa số của Trung Quốc
Con đường tơ lụa số của Trung Quốc
Năm 2013, sáng kiến Vành đai - Con đường (The Belt and Road Initiative - BRI) được công bố, đánh dấu việc Trung Quốc tham gia định hình luật chơi toàn cầu trong thế kỷ 21. Tháng 3/2015, Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC), Bộ Ngoại giao và Bộ Thương mại Trung Quốc phối hợp ban hành “Tầm nhìn và Hành động thúc đẩy cùng xây dựng Vành đai - Con đường” (gọi tắt là sách trắng Vành đai - Con đường), kêu gọi “cùng thúc đẩy xây dựng các tuyến cáp quang xuyên biên giới và các mạng trục thông tin liên lạc, nâng cao mức độ kết nối quốc tế, thông suốt con đường tơ lụa thông tin; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các tuyến cáp quang xuyên biên giới song phương, quy hoạch xây dựng các dự án cáp quang biển xuyên lục địa, cải thiện kênh thông tin không gian (kênh vệ tinh), mở rộng hợp tác và trao đổi thông tin”. Đây là lần đầu tiên khái niệm “Con đường tơ lụa thông tin” hay “Con đường tơ lụa số” được đề cập.
Tháng 3/2015, báo Tân Hoa Xã tóm tắt mục đích xây dựng DSR gồm:
Thứ nhất, cải thiện kết nối khu vực và quốc tế trên năm khía cạnh là cơ sở hạ tầng, thương mại, tài chính, chính sách và “lòng dân”.
Thứ hai, thúc đẩy đổi mới các ngành công nghiệp và việc làm truyền thống ở các nước dọc BRI bằng việc mở cửa thị trường số Trung Quốc.
Thứ ba, tối ưu hóa phân bố nền công nghiệp khu vực, xây dựng cộng đồng khu vực chung lợi ích để tạo ra chuỗi giá trị toàn cầu lấy Trung Quốc làm trung tâm.
Tháng 5/2017, tại Diễn đàn cao cấp Hợp tác quốc tế Vành đai - Con đường, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình phát biểu: “Chúng ta cần kiên trì phát triển theo định hướng đổi mới; tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực mũi nhọn như kinh tế số, trí tuệ nhân tạo, công nghệ nano, máy tính lượng tử...; thúc đẩy dữ liệu lớn, điện toán đám mây và xây dựng các thành phố thông minh; kết nối con đường tơ lụa số thế kỷ 21”.
Tháng 12/2017, tại Hội nghị Internet thế giới lần thứ 4 (tổ chức tại Ô Trấn, Thượng Hải), Trung Quốc lần đầu công bố chiến lược DSR ra thế giới. Cũng tại hội nghị này, các nước gồm Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Lào, Serbia, các Tiểu vương quốc Ả Rập… cùng ký thỏa thuận hợp tác với Trung Quốc về DSR để “cùng nhau mở rộng mạng lưới băng thông rộng, thúc đẩy chuyển đổi kỹ thuật số, khuyến khích hợp tác thương mại điện tử, hoạch định các chính sách nhằm tạo ra một nền kinh tế số minh bạch, thúc đẩy hợp tác tiêu chuẩn hóa quốc tế”. Thời điểm này, báo chí và giới học giả phương Tây chưa chú ý nhiều đến DSR.
Là một phần trong “sáng kiến thế kỷ” BRI, chiến lược DSR tập trung nhiều vào các nước có nền kinh tế đang phát triển. Ước tính đến năm 2019, Trung Quốc đã chi 79 tỷ USD cho các dự án DSR trong trổng số 200 tỷ USD giá trị đầu tư. Theo Báo cáo Phát triển Trung Quốc số năm (2020) của Văn phòng Thông tin Internet quốc gia Trung Quốc, Trung Quốc đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác DSR với 16 nước và thiết lập cơ chế hợp tác song phương “Thương mại điện tử Con đường tơ lụa” với 22 nước, nhờ đó các doanh nghiệp nước này có thể thâm nhập và chiếm ưu thế so với các đối thủ công nghệ đến từ Mỹ, phương Tây trong việc chiếm lĩnh thị trường Etiopia, Nigeria, Rumani, Bungari, Séc, Pakistan, Mông Cổ, Iran... Trung Quốc triển khai hợp tác với các nước tổ chức nhiều hội trợ, triển lãm công nghệ số và kinh tế số, qua đó doanh nghiệp Trung Quốc đã ký kết được hàng nghìn hợp đồng công nghệ dọc theo hành lang BRI.
Tháng 6/2020, Trung Quốc hoàn thành hệ thống vệ tinh định vị Bắc Đẩu, đưa nước này trở thành cường cuốc vệ tinh định vị, cạnh tranh với hệ thống GPS (Mỹ), Glonass (Nga) và Galileo (châu Âu), đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ vệ tinh sang các nước BRI. Tính đến cuối năm 2021, Trung Quốc đã cơ bản hoàn thành tuyến cáp quang dọc BRI, dung lượng vượt 100Tbps, kết nối trực tiếp Châu Á, Châu Phi, Châu Âu và các khu vực khác trên thế giới.
Mục tiêu xây dựng DSR tương thích với các kế hoạch như “Made in China 2025” ban hành năm 2015 “Tiêu chuẩn Trung Quốc 2035” được công bố năm 2020. Việc triển khai đồng loạt các chiến lược công nghệ đã nâng cao năng lực cạnh tranh công nghệ của nước này trên phạm vi toàn cầu, điển hình như Xiaomi năm 2019 là nhà sản xuất smartphone lớn thứ tư thế giới; Alibaba năm 2019 là một trong ba nhà sản xuất mạng ứng dụng thông minh hàng đầu thế giới (cùng với Google và Facebook); Huawei năm 2020 đã trở thành nhà cung cấp thiết bị viễn thông số một thế giới với 28% thị phần toàn cầu; Tiktok của Bytedance thu hút được 2,2 tỷ người theo dõi; Alipay hiện diện trực tiếp hoặc thông qua khách hàng địa phương tại hơn 40 nước... Bên cạnh đó, Trung Quốc đang tham gia mạnh mẽ vào việc định hình tiêu chuẩn công nghệ mới như: Đứng đầu thế giới về bằng phát minh và sáng chế về công nghệ (tính đến năm 2019 với 58.990 bằng sáng chế công nghệ), xuất khẩu mô hình “Thành phố thông minh”, công bố “Mạng lưới dịch vụ chuỗi khối”, phát hành đồng Nhân dân tệ điện tử...
Đối với khu vực Đông Nam Á: Tại Hội chợ Trung Quốc - ASEAN tháng 11/2020, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cho biết muốn tăng cường hợp tác với ASEAN thông qua thúc đẩy DSR để tăng cường kết nối. Trước đó, theo thống kê của Bộ Thương mại Trung Quốc năm 2019, trong số các nước dọc theo BRI thì khu vực Đông Nam Á được các công ty công nghệ Trung Quốc đầu tư nhiều nhất. Đông Nam Á được ví như là “bàn đạp” để các công ty như Huawei, ZTE, Alibaba, Bytedance, Tencent… mở rộng ra toàn cầu.
Ý nghĩa chiến lược của DSR đối với Trung Quốc
DSR thường tập trung vào các bên tham gia BRI và các nền kinh tế đang phát triển, nhưng phạm vi tiếp cận của DSR không giới hạn. Những nước nhận đầu tư thông qua DSR nhiều nhất bao gồm cả các nền kinh tế lớn của Châu Âu như Đức và Italia. Thông qua hợp tác công nghệ, DSR tạo ra một thế giới số hóa hơn nữa từ trải dài từ Serbia đến Mexico và Myanmar. Một thế giới số hóa hơn không chỉ mang lại lợi ích cho các công ty mà còn cả chính phủ Trung Quốc. Theo TheDiplomat phân tích, DSR đem lại cho Trung Quốc bốn ý nghĩa chiến lược lớn [1]:
Thứ nhất: tạo lợi thế cạnh tranh công nghệ. DSR tạo điều kiện cho Trung Quốc thiết lập tiêu chuẩn cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và các công nghệ thế hệ tiếp theo như trí tuệ nhân tạo, robot, Internet of Things, blockchain... Việc thiết lập các tiêu chuẩn sẽ mang lại lợi thế chiến lược đáng kể cho Trung Quốc trong tương lai. DSR thúc đẩy chuỗi cung ứng công nghệ của Trung Quốc, do đó tác động tới nền kinh tế toàn cầu. DSR giúp các công ty công nghệ Trung Quốc nhận được tài trợ từ chính phủ, từ đó cung cấp sản phẩm, dịch vụ với giá thành thấp hơn hoặc được chính phủ hậu thuẫn trong các thương vụ M&A.
Thứ hai: mở rộng mô hình quản trị số Trung Quốc. Trung Quốc có quan điểm quản trị kỹ thuật số rất chặt chẽ, thực thi các hạn chế nghiêm ngặt đối với không gian mạng ở trong nước, hoàn toàn khác với quan điểm tự do của phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ. Do đó, các nước khi hợp tác công nghệ với Trung Quốc sẽ sao chép mô hình quản lý của nước này như “địa phương hóa lưu trữ dữ liệu”, mô hình “chấm điểm công dân”, mô hình “Internet và giám sát”, sử dụng các hệ thống camera giám sát người dân... Hơn nữa, việc Trung Quốc triển khai càng nhiều nền tảng công nghệ ra thế giới thì nước này càng củng cố hơn nữa vị trí của mình trong trật tự kỹ thuật số toàn cầu.
Thứ ba: kiểm soát dữ liệu toàn cầu. Các doanh nghiệp Trung Quốc có thể truy cập vào các kho dữ liệu địa phương thông qua DSR. Bằng cách tăng cường sự phụ thuộc của các nước khác vào cơ sở hạ tầng của mình, về mặt lý thuyết, Trung Quốc có được một công cụ mới có giá trị ảnh hưởng đến nước khác (mặc dù điều này sẽ phụ thuộc đáng kể vào các chính sách an ninh mạng của nước bản địa). Tuy nhiên, việc khai thác tiềm năng như vậy không phải chỉ có Trung Quốc. Như tiết lộ của Edward Snowden và các vụ bê bối dữ liệu Facebook - Cambridge Analytica cho thấy bất kỳ nhà cung cấp công nghệ nào đều có thể lạm dụng những ưu thế về dữ liệu mà họ có.
Thứ tư: phát triển công nghệ lưỡng dụng dân sự – quân sự. DSR liên quan nhiều đến các lĩnh vực công nghệ có tính lưỡng dụng, nhất là công nghệ AI, điện toán đám mây, giao tiếp giữa người - máy, cảm biến, lái xe không người lái, thị giác máy tính, do đó quân đội Trung Quốc tận dụng điều này để tạo ra lợi thế trước các đối thủ, đặc biệt là Mỹ. Việc Trung Quốc hoàn thành hệ thống vệ tinh Bắc Đẩu và tăng cường hợp tác cùng khai thác với các nước sẽ giúp quân đội Trung Quốc nâng cao khả năng định vị tên lửa, kiểm soát dữ liệu và thông tin của các quốc gia dọc theo BRI, qua đó nâng cao khả năng hệ thống chỉ huy, kiểm soát, thông tin liên lạc, máy tính, tình báo, giám sát và trinh sát (C4ISR).
DSR trong bàn cờ cạnh tranh chiến lược toàn cầu
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thừa nhận rằng Trung Quốc đã bước vào một giai đoạn mới mà nước này có thể phát huy sức mạnh địa chính trị của mình trên trường quốc tế; trái ngược với cách tiếp cận “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình. Khi Trung Quốc vươn lên như một siêu cường toàn cầu và có khả năng trở thành bá chủ khu vực, không thể tránh khỏi sự cạnh tranh chiến lược với Mỹ. Không quốc gia nào coi đối đầu trực tiếp, đặc biệt là đối đầu quân sự là lựa chọn tối ưu. Do đó, Mỹ và Trung Quốc sẽ tiến hành cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế và công nghệ[2].
Những kế hoạch chiến lược của Trung Quốc như DSR, “Made in China 2025”, “Tiêu chuẩn Trung Quốc 2025” bên cạnh mục tiêu nâng cao khả năng đổi mới công nghệ, sản xuất và tiêu thụ trong nước, còn giúp nước này thực hiện tham vọng về một trật tự kỹ thuật số mới lấy Trung Quốc làm trung tâm. Trong những năm tới, sự phát triển của DSR sẽ là một trong những ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc nhằm đạt được lợi thế về công nghệ so với Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản. Trong nhiều thập kỷ qua, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ về kinh tế, công nghệ đã mang lại lợi ích cho cả hai bên. Tuy nhiên, hiện nay hai bên ngày càng coi nhau là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp và chiến lược về ưu thế công nghệ[2].
Phản ứng của Mỹ và phương Tây
Việc triển khai DSR và các chiến lược liên quan để định vị vai trò lãnh đạo của Trung Quốc trong trật tự số toàn cầu mang đến sự quan ngại kèm theo các chính sách ứng phó của Mỹ và phương Tây. Trong “Chiến lược an ninh quốc gia 2017”, Mỹ coi năng lực công nghệ của Trung Quốc là mối đe dọa đối với sức mạnh kinh tế, an ninh và quân sự của nước này. Trong báo cáo “Đánh giá mối đe dọa thường niên của cộng đồng tình báo Mỹ” công bố tháng 4/2021, Mỹ coi Trung Quốc đang dần trở thành đối thủ cạnh tranh ngang hàng, thách thức Mỹ trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, quân sự và công nghệ. Theo đó, Mỹ điều chỉnh chính sách, phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan liên bang với nhau cũng như với cộng đồng doanh nghiệp Mỹ, gia tăng phối hợp với các đồng minh và cả những đối tác trong việc kiềm chế Trung Quốc. Cụ thể:
Mỹ tăng cường kiểm soát, loại bỏ “công nghệ Trung Quốc” từ trong nước: Tháng 8/2018, Tổng thống Donald Trump ký Đạo luật Chi tiêu Quốc phòng (NDAA) tài khóa 2019, theo đó các sản phẩm công nghệ của Huawei và ZTE bị cấm sử dụng trong các cơ quan chính phủ và các nhà thầu của Mỹ, bắt đầu cuộc chiến công nghệ toàn diện giữa Mỹ và Trung Quốc. Tháng 12/2018, Mỹ phối hợp Canada bắt CFO Huawei- bà Mạnh Vãn Chu, thu hút sự chu ý của báo chí toàn cầu, sự kiện khiến các nước phải đánh giá kỹ hơn về cuộc chiến công nghệ thế kỷ 21. Tháng 5/2019, Tổng thống Donald Trump ký sắc lệnh tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia, cấm các công ty Mỹ sử dụng thiết bị được sản xuất bởi những công ty đe dọa an ninh quốc gia Mỹ, theo đó hơn 140 công ty, chi nhánh ở nhiều quốc gia của các công ty công nghệ Trung Quốc bị liệt vào “Danh sách thực thể không tin cậy”.
Tháng 8/2020, Mỹ khởi động Chương trình mạng sạch (Clean Network Program) để “quét sạch các công ty công nghệ và viễn thông của Trung Quốc khỏi nước Mỹ”, lôi kéo nhiều nước và các công ty công nghệ toàn cầu tham gia nhằm tạo hiệu ứng “tẩy chay” sản phẩm, ứng dụng, công nghệ Trung Quốc. Chương trình mạng sạch gồm: Các nhà cung cấp mạng sạch, Cửa hàng sạch; Ứng dụng sạch; Lưu trữ đám mây sạch, Các tuyến cáp sạch. Tháng 11/2020, Bộ Ngoại giao Mỹ thông báo đã có 50 nước và 170 công ty gia nhập.
Tháng 6/2021, Thượng viện Mỹ thông qua dự luật Đổi mới và cạnh tranh Mỹ năm 2021, cho phép cấp ngân sách 190 tỷ USD để tăng cường nghiên cứu và ứng dụng công nghệ Mỹ, củng cố khả năng cạnh tranh, không để Trung Quốc vượt mặt trong cuộc đua công nghệ. Về lĩnh vực tài chính, năm 2018, Mỹ thành lập Tập đoàn Tài chính Phát triển Quốc tế (DFC) nhằm tăng cường hỗ trợ các công ty công nghệ để cung cấp lựa chọn thay thế DSR .
Mỹ hợp tác với các nước đồng minh cùng hành động kiềm chế Trung Quốc: Năm 2018, Mỹ đề xuất chương trình “Đối tác kết nối số và An ninh mạng (Digital Connectivity and Cybersecurity Partnership - DCCP)” thuộc khuôn khổ Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, tổ chức đối thoại về chính sách không gian mạng, hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo cho các nước, trong đó có các quốc gia ASEAN, nhằm thúc đẩy mạng Internet mở, tương tác, tin cậy và an toàn, tăng khả năng của Mỹ trong định hình tương lai kỹ thuật số ở các nước đang phát triển. Năm 2019, Mỹ đề xuất cơ chế “Hành động đa phương về công nghệ nhạy cảm (MAST)", hợp tác cùng 15 nước có nền công nghiệp phát triển, chủ yếu ở châu Âu, nhằm áp đặt các hạn chế đối với các công ty công nghệ Trung Quốc.
Tháng 5/2019, 32 quốc gia từ Bắc Mỹ, châu Á, Tây và Đông Âu, Úc và Israel đã tổ chức hội nghị bảo mật 5G tại Praha, Séc (ngoại trừ chính phủ và doanh nghiệp Trung Quốc, Nga), “Đề xuất Praha” được thông qua tại hội nghị ngụ ý rằng các doanh nghiệp và thiết bị Trung Quốc gây ra rủi ro an ninh quốc gia. Tháng 7/2021, Mỹ cho biết dự định sẽ xây dựng thỏa thuận thương mại kỹ thuật số mới với các nước châu Á-Thái Bình Dương để cạnh tranh với Trung Quốc, dự kiến sẽ gồm Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Australia, New Zealand và Singapore. Bên cạnh đó, Mỹ thông qua các chương trình hợp tác với các nước để kiềm chế Trung Quốc ở cấp độ tiêu chuẩn kỹ thuật và quy tắc quốc tế, như: phản đối việc nội địa hóa và kiểm soát dữ liệu; sử dụng "Trung tâm Cơ sở hạ tầng chất lượng Châu Á" tại Singapore thiết lập tiêu chuẩn hạ tầng số mới; hợp tác với UAE và các nước lập Trung tâm cơ sở hạ tầng chất lượng cao ở Trung Đông và Ấn Độ Dương.
Tại khu vực Đông Nam Á, Mỹ tăng cường triển khai các chương trình hợp tác Mỹ-ASEAN như: Chương trình “Chuỗi hoạt động kinh tế số”, thuộc khuôn khổ Khung kết nối Mỹ-ASEAN; thành lập “Đối tác Mỹ-ASEAN về các thành phố thông minh, (USASCP)” kết nối các thành phố của Mỹ với Mạng lưới các thành phố thông minh ASEAN; tổ chức “Đối thoại chính sách mạng ASEAN-Mỹ” (ASEAN-USCyber Policy Dialogue) thường niên. Trong triển khai chính sách tại ASEAN, Mỹ coi Singapore là đầu mối để lan tỏa ảnh hưởng kỹ thuật số tới các nước trong khu vực; coi Nhật Bản là đối tác chính để kiềm chế DSR của Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á, ngoài ra cũng lợi dụng các nước khác như Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc.
Kể từ năm 2018 đến nay, hoạt động kiềm chế của Mỹ và đồng minh đối với Trung Quốc đã tác động không nhỏ đến chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng và hoạt động đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp công nghệ Trung Quốc. Huawei bị ảnh hưởng lớn nhất, năm 2020 doanh thu chỉ tăng 3,8% (thấp hơn nhiều so với 19% của năm 2019), trong đó 65% là nguồn thu trong nước, mảng smartphone từ vị trí thứ 2 tụt xuống vị trí thứ 6 thế giới, mảng viễn thông chỉ tăng 0,2%. Các công ty như Tencent, ByteDance, ZTE, Xiaomi... cũng trải qua thời kỳ khó khăn tại thị trường Mỹ và một số nước. Một số công ty công nghệ Mỹ và Châu Âu đã rút dây truyền sản xuất khỏi thị trường Trung Quốc, chuyển sang các nước khu vực Đông Nam Á hoặc Ấn Độ để loại bỏ nhãn mác nguồn gốc sản xuất Trung Quốc.
Đánh giá và đề xuất đối với Việt Nam
DSR và các chiến lược công nghệ khác của Trung Quốc có tác động ảnh hưởng nhất định đến xu thế phát triển kỹ thuật số trên phạm vi toàn cầu, hình thành thế cạnh tranh công nghệ giữa một bên là Trung Quốc còn một bên là Mỹ và đồng minh, từ đó xuất hiện thuật ngữ “cạnh tranh địa kỹ thuật số” thế kỷ 21. Theo phân tích của các chuyên gia, rủi ro mà thế giới gặp phải là vấn đề phân tách công nghệ, tiêu chuẩn và chuỗi cung ứng. Trên thực tế, các quốc gia tầm trung, các nước vừa và nhỏ có xu hướng gia tăng hợp tác, bổ trợ lẫn nhau về công nghệ để hạn chế những tác động tiêu cực từ sức ép phải “chọn bên” gây ra, như “Cơ chế hợp tác số Digital5” giữa Anh, Estonia, Hàn Quốc, Israel và New Zealand; Hiệp định kỹ thuật số Australia -Singaporevà Singapore - New Zealand; Hiệp định Đối tác kinh tế số Singapore - Chile - New Zealand [3].
Đối với ASEAN, với việc Mỹ không tham gia sâu vào các hiệp định thương mại khu vực, tạo cơ hội để Trung Quốc ảnh hưởng nhiều hơn vào việc định hình kỹ thuật số ASEAN. Nếu cạnh tranh và phân tách công nghệ giữa các nền kinh tế lớn tiếp tục gia tăng, ASEAN sẽ đứng trước thách thức bị “phân mảng” công nghệ ngay trong nội khối. Một số nước ASEAN xem DSR là cơ hội để thúc đẩy phát triển công nghệ số và kinh tế số trong nước như Lào, Malaysia và Myanmar thỏa thuận tham gia DSR; Lào, Brunei và Thái Lan sử dụng dịch vụ định vị Bắc Đẩu; Malaysia, Thái Lan phối hợp Alibaba triển khai các trung tâm thương mại số. Trái lại, việc thâm nhập của các công ty Trung Quốc vào thị trường Singapore và Việt Nam gặp khó khăn hơn. Tại Việt Nam, DSR chủ yếu thông qua các thương vụ M&A như việc Tencent đầu tư vào VNG (chủ sở hữu mạng Zalo), JD.com đầu tư vào Tiki.vn, SEA đầu tư vào VNPay...
Trung Quốc là quốc gia láng giềng và là đối tác kinh tế, thương mại hàng đầu của Việt Nam, do đó việc Trung Quốc triển khai DSR và các chiến lược công nghệ liên quan sẽ có tác động nhất định tới Việt Nam. Hiện tại, mức độ tham gia của Việt Nam vào DSR còn khiêm tốn và chủ yếu dựa vào phía doanh nghiệp. Tuy nhiên do hạn chế về nguồn vốn, kỹ thuật công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao, các doanh nghiệp trong nước có thể vấp phải sự cạnh tranh không cân sức hoặc từ các hoạt động M&A của các công ty lớn Trung Quốc.
Tình hình mới luôn đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu mới, phát triển lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông của Việt Nam cần đổi mới sáng tạo và phải thích ứng nhanh chóng, chủ động với tình hình nhằm đón đầu và tranh thủ các cơ hội mang lại, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực do cạnh tranh “địa kỹ thuật số” mang lại. Trên tinh thần đó, từ góc độ chiến lược, Việt Nam cần tập trung vào:
Một là, đánh giá toàn diện về tác động thuận, nghịch do cạnh tranh công nghệ Mỹ - Trung trên từng khía cạnh, từng lĩnh vực; rà soát, điều chỉnh chiến lược phát triển công nghệ trong tương quan với khu vực và thế giới để định hướng phát triển trong trung hạn và dài hạn.
Hai là, tăng cường phối hợp trong khối ASEAN, xây dựng chương trình hợp tác, chương trình hành động chung của khối về công nghệ và kỹ thuật số.
Ba là, đánh giá đầy đủ tình hình M&A trong lĩnh vực công nghệ có liên quan đến dòng vốn từ Trung Quốc; nghiên cứu điều chỉnh các Luật liên quan hoặc ban hành các quy định pháp luật mới phù hợp với các hiệp định hợp tác thương mại song phương và đa phương liên quan đến công nghệ số mà Việt Nam đã và dự kiến sẽ tham gia.
Tài liệu tham khảo 1. https://thediplomat.com/2021/04/chinas-digital-silk-road-and-the-global-digital-order/ 2. Theo PacForum, “China’s Digital Silk Road: Strategic Technological Competition and Exporting Political Illiberalism”. 3. Theo Tạp chí Cộng sản; “Trung Quốc thúc đẩy định hình tiêu chuẩn công nghệ toàn cầu và một số hàm ý chính sách đối với Việt Nam” - TS. Lê Trung Kiên, Viện Nghiên cứu chiến lược, Học viện Ngoại giao. |
Trần Liệu