Công bố Luật Tần số vô tuyến điện và Luật Viễn thông
Luật Tần số Vô tuyến điện gồm 8 chương, 49 điều được xây dựng nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tần số vô tuyến điện, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Tăng tính cạnh tranh trong khai thác tài nguyên tần số VTĐ
Luật Tần số VTĐ đã bổ sung nhiều nội dung mới nhằm thúc đẩy sự phát triển của thông tin VTĐ, thúc đẩy ứng dụng các công nghệ hiện đại sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên tần số, đảm bảo sự cạnh tranh trên thị trường dịch vụ thông tin vô tuyến. Luật bổ sung hình thức cấp phép theo cơ chế thị trường thông qua việc thi tuyển, đấu giá quyền sử dụng tần số, cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng trong trường hợp cấp phép bằng phương thức đấu giá, những quy định mới này sẽ cho phép lựa chọn các doanh nghiệp có năng lực thực sự, cung cấp dịch vụ tốt nhất, sử dụng hiệu quả tài nguyên phổ tần số VTĐ. Tính minh bạch trong cấp phép các băng tần quý hiếm sẽ cao hơn. Thị trường dịch vụ thông tin VTĐ sẽ trở nên lành mạnh và có tính cạnh tranh thực sự.
Các quy định về việc tuân thủ các quy chuẩn an toàn bức xạ VTĐ và yêu cầu kiểm định các công trình phát sóng VTĐ trước khi đưa vào sử dụng, quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý, trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu, trách nhiệm của người sử dụng trong vấn đề bảo đảm an toàn bức xạ điện cũng được đề cập cụ thể.
Khuyến khích tư nhân tham gia phát triển hạ tầng viễn thông
Điểm mới của Luật Viễn thông được công bố thể hiện rõ tại khoản 3 Điều 33 là tạo điều kiện và mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế trong kinh doanh viễn thông, đặc biệt đối với lĩnh vực thiết lập hạ tầng mạng.
Luật còn quy định thêm các hình thức phân bổ thi tuyển, đấu giá đối với các tài nguyên viễn thông có giá trị thương mại cao, nhu cầu sử dụng vượt quá khả năng phân bổ.
Với 10 chương và 63 điều, Luật góp phần tăng cường công tác thực thi pháp luật trong lĩnh vực viễn thông; thành lập Cơ quan quản lý chuyên ngành về viễn thông để quản lý thị trường và nghiệp vụ viễn thông. Việc cấp phép viễn thông được minh bạch và công khai hóa, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm thông qua việc bỏ bớt các thủ tục về đăng ký, thẩm tra dự án đầu tư...